3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
a. Vật liệu thí nghiệm
-Khoan điện 01 cái.
-Mũi khoan gỗ có đường kính 10 – 12mm.
-Khoan tăng trưởng Pressler
– Hai chủng nấm đã được phân lập.
- Nấm trắng.
- Nấm đen.
-Bốn loại hoá chất đã được chuẩn bị từ trước.
- Dầu
- Cl2
- NO3
- SO4
-Chất phụ gia (bột trơ) 0.5kg.
-06 Xilanh loại lớn.
-06 ly thuỷ tinh để đựng hoá chất.
-Nước cất vô trùng.
-Những cây Dó bầu đã được chọn để bố trí thi nghiệm.
-Thiết bị định vị toàn cầu GPS.
-Thước dây.
b. Khảo sát đo đạc.
Tiến hành khảo sát và đo đạc thực địa những cây Dó bầu để tiện cho việc chọn ra những cây, những nhóm cây có đủ tiêu chuẩn để bố trí thí nghiệm như:
-Đường kính gốc.
-Đường kính thân cách mặt đất 1.3m.
-Đường kính của các nhánh cách mặt đất 1.3m.
-Chiều cao của cây.
-Chiều cao của phân nhánh đầu tiên.
-Chiều rộng và chiều dài của lá.
-Vị chí địa lý.
-Điều kiện thổ nhưỡng.
-Môi trường sinh sống.
-Nguồn gốc, xuất sứ của cây.
Mục đích của việc đo đạc và tuyển chọn một số cây Dó bầu để bố trí thí nghiệm là để khảo sát, đánh giá mức độ tương tác, phản ứng của cây với các nghiệm thức.
Kết quả của việc tương tác, phản ứng đó là khả năng hình thành Trầm hương của từng giống cây, từng điều kiện sinh sống, từng nghiệm thức cũng như là từng điều kiện thổ nhưỡng… Để từ đó tìm ra được những giống cây Dó bầu, có khả năng cho Trầm hiệu quả, cùng điều kiện sinh sống thích hợp.v.v…
Vì vậy chúng tôi đã tiến hành khảo sát những cây Dó bầu được trồng ở các địa phương khác nhau như: Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang., Đại Lãnh tỉnh Khánh Hoá, ở Vỉnh Long và ở Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh.
Ở từng địa điểm thí nghiệm ta xác định điều kiện sống, vị trí của từng nhóm cây mà ta thực hiện thí nghiệm, cũng như là nguồn gốc của từng nhóm cây.
Ngoài ra với những số liệu đo đạc ngoài thực tế đã giúp cho chúng tôi tính toán, lập sơ đồ, chọn cây để bố trí thí nghiệm trên lý thuyết trước khi đưa ra bố trí ngoài thực tế.
Bảng số liệu khảo sát cây Dó bầu ở Thảo Cầm Viên.
Địa điểm: Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày lây nhiễm: 15/02/2003. Ngày lấy mẫu: 13/04/2005.
Nguồn gốc: Cây có nguồn gốc từ An Giang.
Tuổi của cây: Trồng từ năm 1994.
Toạ độ: N 10019’19.2’’ – E 103058’31.6’’.
Ngày lây nhiễm: 07/08/2005. Ngày lấy mẫu: 21/04/2006.
Nguồn gốc: Cây có nguồn gốc ở địa phương.
Tuổi của cây: Trồng từ năm 1999.
c. Phương pháp xử lý mẫu để phân lập vi sinh.
Sau khi mẫu được đưa về phòng thí nghiệm thì chúng tôi tiến hành bảo quản mẫu ở tủ mát, và tiến hành xử lý từng mẫu một. Mẫu là khối gỗ lớn, Trầm được hình thành trong lõi của khối gỗ đó. Vì vậy để phân lập vi sinh trước hết phải chẻ khối gỗ để lộ phần Trầm ra ngoài.
Khi phần Trầm đã lộ thì tiếp tục phẫu thuật vô trùng để loại bỏ hết phần mẫu vật bị nhiễm từ bên ngoài bằng việc gọt bỏ hết lớp gỗ và lớp Trầm hình thành ở bề mặt ngoài.
Khi đã gọt sạch hết lớp gỗ bên ngoài thì tiến hành cắt mẫu bằng dao phẫu thuật vô trùng. Khi cắt mẫu lưu ý cắt cả phần có Trầm và phần gỗ chưa hình thành Trầm. Mẫu được cắt không nên quá lớn cũng không nên quá nhỏ, làm sao cho ta dễ thao tác là được. Tiến hành cắt 10 miếng mẫu nhỏ trong một mẫu lớn có Trầm được lấy về.
Rửa mẫu sau khi cắt mẫu, mẫu được cho vào cốc thủy tinh rồi rửa bằng nước cất vô trùng, sau đó lập lại thêm một lần nữa.Tiếp tục rửa mẫu bằng cồn 960 trong vòng một phút.
Sau đó lại rửa lại bằng nước cất vô trùng và cũng lập lại hai lần để cho sạch hếtcồn. Dùng hai miếng giấy thấm cho khô mẫu vật để chuẩn bị cho việc nuôi cấy.
d. Chuẩn bị môi trường nuôi cấy vi sinh.
Tiến hành phân lập nấm trên hai môi trường cơ bản là môi trường bột bắp Agar và môi trường PGA.
Đối với môi trường bột bắp Agar.
Cân 50g bột bắp đã xay nhuyễn.
20g agarwood
Một lít nước cất vô trùng
Cho một lít nước cất với 50g bột bắp vào nồi nấu chín bột bắp.
Đối với agar thì cho 20g vào cốc thuỷ tinh loại 500ml sau đó thêm nước cất cho tới 200ml để hoà tan agar.
Khi bột bắp đã chín thì tiến hành đổ agar vào và dùng đũa thuỷ tinh khuấy cho đều bột bắp với Agar. Tiếp tục đun cho bột bắp sôi trở lại để cho chín agar. Sau đó tiến hành đổ đĩa hay bình tam giác để giữ mẫu.
Đối với môi trường PGA.
Khoai tây sau khi mua về tiến hành rửa sạch, gọt vỏ sau đó rửa sạch lại một lần nữa, rồi cắt khoai tây ra thành từng miếng và cân cho đủ 300g. Cho vào 1 lít nước cất vô trùng và tiến hành đun cho khoai tây chín kĩ.
Cân 20g glucose cho vào cốc thuỷ tinh và thêm 100ml nước cất vô trùng để hoà tan.
Cân 20g agar cũng cho vào cốc thuỷ tinh có dung tích 500ml và thêm nước cất vô trùng vào cho đủ 200ml để hoà tan agar.
Sau khi khoai tây đã chín kĩ tiến hành vớt hết bã khoai tây ra. Cho agar và glucose vào dùng đũa thuỷ tinh khuấy cho đều và tiếp tục nấu cho agar chín.
Trong thời gian nấu môi trường thì đồng thời chuẩn bị:
20 đĩa Petri vô trùng.
40 ống nghiệm vô trùng.
5 bình tam giác loại 250ml vô trùng.
Khi môi trường đã chín thì ta tiến hành đổ môi trường vào 40 ống nghiệm đã chuẩn bị. Phần môi trường còn lại đổ vào các bình tam giác vô trùng, sao cho mỗi bình khoảng 150ml. Nút bình tam giác bằng nút bông không thấm nước có bọc một lớp giấy báo bên ngoài.
Sau khi đổ xong môi trường thì tiến hành hấp môi trường để diệt hết những vi sinh vật có trong môi trường. Các ống nghiệm đã có môi trường được gói lại bằng giấy báo và cho vào nồi hấp cùng với các bình tam giác đã có môi trường, tiến hành hấp ở 121 độ C trong 15 phút.
Sau khi hấp môi trường xong, phần môi trường trong ống nghiệm để đổ thạch nghiêng. Bằng cách cho ống nghiệm nằm nghiêng gối đầu lên một đũa thuỷ tinh hay ống hút.
Để một thời gian cho môi trường trong ống nghiệm khô. Sau khi môi trường đã khô cả trong ống nghiệm cũng như trong bình tam giác thì tiến hành bảo quản và theo dõi trong hai ngày xem có sự lây nhiễm vi sinh vật từ bên ngoài vào không.
Nếu có sự lây nhiễm thì tiến hành đổ bỏ môi trường đó, nấu lại môi trường khác. Còn nếu không có sự lây nhiễm thì tiến hành nấu cách thủy đối với những bình tam giác môi trường đến khi môi trường trong bình chảy ra hoàn toàn.
Sau đó tiến hành đổ vào đĩa Petri vô trùng đã được chuẩn bị từ trước. Lưu ý khi đổ đĩa thì nên đổ trong tủ cấy vi sinh hoặc trên ngọn lửa đèn cồn để tránh sự xâm nhiễm. Sau khi đổ đĩa thì chúng ta tiếp tục theo dõi trong hai ngày nếu không có sự sâm nhiễm thì mới tiến hành cho cấy mẫu.
e. Tiến hành cấy mẫu vi sinh.
Sau khi đổ môi trường xong chúng ta tiến hành cấy mẫu như sau:
Những mẫu đã được cắt nhỏ và thấm cho khô chúng ta tiến hành cấy vào môi trường đĩa Petri. Cấy sao cho mỗi đĩa Petri là 5 mẫu theo hình chữ thập với một mẫu ở tâm. Ta tiến hành làm như vậy với tất cả các mẫu Trầm đã được mang về. Đối với các mẫu Trầm đã cấy xong thì tiếp tục được giữ và bảo quản ở tủ mát, để sẵn sàng cấy lại nếu mẫu cấy bị hỏng
Khi đã cấy xong mẫu thì bảo quản mẫu ở tủ cấy và để ở nhiệt độ phòng để theo dõi. Đối với các đĩa không bị tạp nhiễm. Khi các nấm đã mọc nhiều trên mặt đĩa thì ta tiến hành cấy truyền. Còn đối với những đĩa đã xác định bị tạp nhiễm thì đổ bỏ và tiến hành cấy lại.
Trên cùng một đĩa các khuẩn lạc khác nhau thì được cấy trên các đĩa môi trường khác nhau. Để phân tách ra thành từng giống nấm riêng biệt (thường thì trên cùng một đĩa có nhiều loại khuẩn lạc cùng mọc).
Và cứ tiếp tục cấy truyền đến khi thấy khuẩn lạc là đồng nhất trên mỗi đĩa thì dừng để tăng sinh khối nhằm mục đích định danh nấm. Mặt khác nếu những chủng nấm nào đã thuần thi đem cấy vào môi trường ống nghiệm để bảo quản, giữ mẫu tiện cho việc thí nghiệm và nghiên cứu về sau. Khi các mẫu nấm đã sinh bào tử thì ta tiến hành chuẩn bị định danh nấm.
Định danh nấm: Các mẫu nấm đã được phân lập tiếp tục được bảo quản và nuôi cấy đến thời kỳ sinh sản thí ta mới định danh chính xác được các loại nấm. Bằng cách dựa vào cơ quan sinh sản, sợi nấm, hình thức sinh sản. Mỗi loại nấm có một đặc tính riêng ta dựa vào những đặc điểm riêng của từng loài nấm để có thể xác định được các loài nấm khác nhau.
Các loài nấm đã định danh được và cả một số loài nấm chưa định danh được vẫn tiếp tục nhân sinh khối. Mục đích của việc nhân sinh khối này là để phục vụ cho các thí nghiệm cũng như phục vụ cho việc nghiên cứu kỹ hơn về sau này. Song song với việc nhân sinh khối thì ta vẫn tiếp tục bảo quản các mẫu nấm trong ống nghiệm để bảo tồn và lưu trữ mẫu.
f. Đặc điểm định danh một số loài nấm có liên quan đến sự tạo Trầm.
Aspergillus spp (Jaladaddin, 1970). Có cuống sinh bào tử gọi là túi đỉnh, túi đỉnh có hình cầu, hình bầu dục hoặc hình thuỳ. Cuống sinh bào tử phát triển từ tế bào khuẩn ty. Đầu túi đỉnh mọc ra các tế bào hình ống gọi là thể bình, thể bình có thể ở dạng đơn hoặc đôi. Các bào tử đơn hình cầu nối tiếp nhau sinh ra từ thể bình. Khi chín các bào tử tách rời ra và phát tán ra môi trường ngoài.
Penicillium sp (Jaladaddin, 1970). Bào tử hình cầu hoặc hình trứng, có màu sáng hoặc trong suốt. Bào tử nối tiếp nhau đính lên cuống sinh bào tử. Cuống sinh bào tử có thể phân nhánh 1, 2 hoặc 3 tầng trên thể bình. Khi chín bào tử tách rời nhau và rời cuống sinh bào tử để phát tán ra ngoài.
Botryodiplodia sp (Gibson, 1977). Bào tử có hình trứng, khi còn non không có màu, trong suốt, không có vách ngăn, khi chín có màu nâu đen bào tử có vách ngăn. Các bào tử được chứa đựng trong một cái túi gọi là Pycnidia. Thường thì các Pycnidia tập trung lại với nhau tạo thành những ổ nấm. Khi chín thì các Pycnidia vỡ ra cho các bào tử phát tán ra ngoài.
Cladosporium sp (Blanchette, 2002). Bào tử thường biến đổi từ 1 đến 2 tế bào. Thường bào tử có hình dạng không ổn định hình cầu hoặc hình trứng không đều, hoặc hình trái chanh. Bào tử đính lên cây sinh bào tử. Loại nấm này thường sống ký sinh và hoại sinh trên thực vật bậc cao.
Diplodia sp (chưa biết tác giả tuy nhiên có nhiều tài liệu nói đến khả năng tạo Trầm từ nấm này). Có bào tử đơn khi còn non trong suốt, khi chín có màu nâu đen và có vách ngăn. Bào tử có hình trứng hoặc hình bầu dục. Khi chưa chín bào tử nằm trong Pycnidia.
Các Pycnidia mọc đơn độc không mọc thành cụm như Pycnidia của Botriodiplodia sp. Các Pycnidia cũng chứa ít bào tử. Khi chín Pycnidia vỡ ra cho bào tử phát tán ra ngoài. Bào tử thường ít và đơn độc.
Macrophoma sp (chưa biết tác giả) Sinh sản bằng bào tử đơn. Bào tử có màu trong suốt giống như Botriodiplodia còn non. Bào tử cũng bao bọc bởi Pycnidia. Pycnidia cũng mọc đơn lẻ như như Diplodia.
Rhizoctonia sp (Gibson, 1977). Khuẩn ty là những tế bào dài không nhân, có vách ngăn giữa các tế bào. Bào tử nhỏ không nhân, thường có màu tối hoặc đen, hình dạng không ổn định. Bào tử được sinh ra từ những khuẩn ty.
Trichoderma sp (Gibson 1977). Cuống bào tử đính trong suốt và có nhiều nhánh. Bào tử có một tế bào trong suốt không nhân hình trứng. Thường thì dễ nhận biết bằng sự tăng trưởng nhanh, thường có đốm xanh ở cuống bào tử.
Torula sp (Blenchette 2002). Cuống sinh bào tử ngắn, đôi khi không có. Bào tử hình cầu nối tiếp nhau gắn trên đỉnh sinh bào tử, đôi khi có phân nhánh. Bào tử đôi khi có một hoặc nhiều tế bào.
Phialophora sp (tác giả Gibson 1977). Cuống bào tử ngắn, đôi khi có nhánh. Có thể bình đôi khi tròn, đầu cuống sinh bào tử hơi bè ra và bào tử mọc ra từ đây. Bào tử hình cầu, bào tử đơn có màu tối.
Ngoài ra còn có rất nhiều loài nấm khác có ít nhiều liên quan đến sự tạo Trầm nhưng với giới hạn của đề tài nên chúng tôi chưa thể thống kê hết được. Mong rằng các quý độc giả thông cảm và đóng góp ý kiến xây dựng cho chúng tôi. (Theo
Illustrated genera of imperfect fungi của H.L: Barnett division of plant sciences Wets Virginia University Morgantown West Virginia and Barry B. Hunter Department of Biologi California State College California, Pennsylvania).
g. Khoan cây để bố trí thí nghiệm.
Sau khi đã chuẩn bị song các điều kiện cần (chủng vi sinh, hoá chất) thì chúng ta tiến hành bố trí thí nghiệm như sau:
Các cây Dó bầu đã được chọn để bố trí thí nghiệm được đánh dấu và khoan vào những vị trí đã được đánh dấu. Việc bố trí các lỗ khoan sao cho theo hình xoắn ốc, vòng quanh theo thân cây từ dưới lên. Sao cho mỗi mũi khoan cách nhau 20cm về chiều cao.
Còn về chiều ngang thì tuỳ theo chu vi trung bình của mỗi cây. Chiều ngang được tính theo số đo trung bình của chu vi đoạn cây dùng để khoan chia cho 7 nghiệm thức. Với việc bố trí mũi khoan như vậy thì tất cả các mũi khoan, từng đôi một sẽ không nằm trên một đường thẳng của mạch gỗ.
Khi đã tính toán và đánh dấu chính xác vị trí các lỗ cần khoan thì ta tiến hành khoan. Dùng khoan tăng trưởng Pressler để khoan với mũi khoan có đường kính 10 đến 12mm, và khoan sâu vào thân cây khoảng 5 đến 8cm.
h. Chọn chủng loại nấm và hoá chất để bố trí thí nghiệm.
Việc tìm, chọn ra được loài nấm cần cho việc bố trí thí nghiệm trong rất nhiều loài nấm đã được tìm thấy và định danh là một việc tương đối khó và tốn rất nhiều thời gian.
Cùng với việc thừa hưởng những thành tựu và kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học đi trước ở cả trong và ngoài nước. Kết hợp với những số liệu về chủng loại nấm mà ta phân lập, định danh được ở các mẫu Trầm hương trong nước. Chúng tôi đã chọn được ra hai loài nấm dùng để bố trí vào hai mẫu nghiệm thức vi sinh.
Vi sinh vật được chọn là hai loại nấm trắng và đen được phân lập, tuyển chọn từ những mẫu Trầm có ngoài tự nhiên. Hai loài nấm này được phân lập từ những mẫu Trầm hương ngoài tự nhiên ở nước ta nên nó hoàn toàn thích nghi với điều kiện khí hậu, môi trường khi bố trí vào các nghiệm thức. (Phương pháp phân lập chúng tôi sẽ giới thiệu ở phần sau).
Đối với hai loài nấm trên thì ta không thể định lượng được vì hai loài nấm mà ta dùng để bố trí thí nghiệm sinh sản bằng bào tử túi (một túi bào tử bên trong có nhiều bào tử nhỏ). Do đó ta chọn những ống nghiệm mà nấm đã mọc kín bề mặt môi trường và đã sinh bào tử. Khi bơm nấm vào nghiệm thức ta bơm cả phần môi trường của nấm trong ống nghiệm.
Đối với hoá chất: việc chọn ra 4 loại hoá chất cũng dựa vào cơ sở thực tế. Việc những cây Dó bầu ngoài tự nhiên bị bom, đạn làm tổn thương sau chiến tranh lại cho Trầm kỳ tốt hơn. Đó là một cơ sở khoa học để cho chúng tôi lựa chọn hoá chất.
Ngoài ra việc nông dân một số nơi dùng Dầu để bố trí vào vét thương hở của cây để dẫn dụ kiến làm tổn thương cây tạo Trầm mắt kiến… Đó là một trong những cơ sở mà chúng tôi cần nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Với 4 hoá chất còn lại mỗi loại hoá chất được bơm vào một lỗ khoan mà ta gọi đó là một nghiệm thức. Liều lượng hoá chất được đưa vào một nghiệm thức là 0,2g. Với 0.2g hoá chất thì không thể lấp đầy khoảng không gian của lỗ khoan được, nên ta phải chộn hoá chất chung với bột trơ. (Bột trơ là một loại bột màu trắng không mùi, không gây phản ứng hoá học).
Khối lượng của bột trơ cho vào được tính như sau: Thể tích khối lượng bột trơ bằng thể tích lỗ khoan trừ cho thể tích của 0.2g hoá chất
Khi tính toán khối lượng bột trơ cần dùng cho mỗi nghiệm thức. Ta cho mỗi loại hoá chất và mỗi loại vi sinh vào một cốc thuỷ tinh sạch rồi thêm bột trơ vào trộn đều. Sau đó cho thêm nước cất vô trùng vào trộn để được một hỗn hợp hơi đặc sệt, vừa đủ lỏng để có thể bơm được vào các nghiệm thức. Khi bơm mẫu ta dùng Xilanh loại lớn 200ml để bơm. Mỗi loại hóa chất và vi sinh cho vào một Xilanh riêng rẽ.
Các nghiệm thức được chọn để bơm hoá chất hoặc vi sinh một cách ngẫu nhiên dựa vào bảng ngẫu nhiên bằng việc bốc thăm hai lần như sau: Chuẩn bị hai nhóm thăm. Nhóm thăm thứ nhất đánh số từ 1 đến 7 tương ứng với 7 vị trí khoan trên cây.
Nhóm thăm thứ hai ghi tên các nghiệm thức mà ta cần bố trí thí nghiệm. Để có được sự khách quan ngẫu nhiên thì chúng tôi tiến hành bắt một thăm ở nhóm thứ nhất và một thăm ở nhóm thứ hai rồi ghép lại với nhau thì ta được một nghiệm thức bố trí trên cây.
Nghiệm thức | Vật liệu bố trí |
1 | Nấm trắng |
2 | Nấm đen |
3 | Đối chứng |
4 | Cl |
5 | Dầu |
6 | SO4 |
7 | NO3 |
Vị trí | Trên Cây | ||
A | B | C | |
I | 7 | 6 | 7 |
II | 6 | 1 | 1 |
III | 1 | 4 | 2 |
IV | 3 | 3 | 6 |
V | 2 | 7 | 3 |
VI | 4 | 5 | 4 |
VII | 5 | 2 | 5 |
Vị Trí | Tên Cây | ||
A | B | C | |
I | 7 | 6 | 7 |
II | 6 | 1 | 1 |
III | 1 | 4 | 2 |
IV | 3 | 3 | 6 |
V | 2 | 7 | 3 |
VI | 4 | 5 | 4 |
VII | 5 | 2 | 5 |
Nghiệm thức | Vật liệu bố trí |
1 | Cl |
2 | SO4 |
3 | Dầu |
4 | Nấm trắng |
5 | Nấm đen |
6 | NO3 |
7 | Đối chứng |
Vị Trí | Tên Cây | ||
A | B | C | |
I | 7 | 7 | 1 |
II | 6 | 1 | 3 |
III | 1 | 2 | 6 |
IV | 3 | 6 | 5 |
V | 2 | 3 | 2 |
VI | 4 | 4 | 7 |
VII | 5 | 5 | 4 |
Đối với nghiệm thức đối chứng ta chỉ khoan mà không xử lý với bất kỳ tác nhân nào.
Sau khi hoàn thành xong việc bơm hoá chất và vi sinh vào các lỗ khoan thì chúng ta tiến hành cắm ống Bio vào các lỗ khoan để tránh cho cây gắn liền vết thương tại đó lại.
Khi đã bố trí xong các nghiệm thức thì chúng tôi vẫn tiếp tục theo dõi sự phản ứng của cây với các nghiệm thức cũng như sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Thời gian khai thác cây để khảo sát sự hình thành Trầm hương ở từng nghiệm thức được ấn định 6 tháng, 12 tháng khai thác một lần để khảo sát.
khoan tạo trầm trên cây dó bầu
4. Kết quả quan sát phản ứng của cây sau khi bố trí các nghiệm
Sau 1-2 tuần theo dõi thì thấy phần lớn các cây được bố trí thí nghiệm có các phản ứng mạnh mẽ ở các nghiệm thức khác nhau.
Đối với các nghiệm thức được bố trí bằng hợp chất hoá học thì có phản ứng mạnh hơn những nghiệm thức được bố trí bằng vi sinh. Ở các nghiệm thức này thì vùng mô chết lớn hơn. Diện tích của vùng mô chết không đồng đều giữa các nghiệm thức cũng như giữa các cây. Trung bình diện tích vùng mô bị chết là 6,5cm*2cm.
Đối với các nghiệm thức bố trí bằng vi sinh thì hầu như không có phản ứng. Vùng mô chết quanh các nghiệm thức là do kết quả của quá trình khoan cây mang
lại.
Do đó có nhiều dấu hiệu hình thành mô mới để hàn gắn vết thương. Kết quả này có được là do sự đối chứng với các nghiệm thức khoan đối chứng, là chỉ khoan mà không tác động gì thêm.
Đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây, chúng tôi không đi sâu vào nghiên cứu mà chỉ quan sát những phản ứng biến đổi bên ngoài thì thấy các cây có bố trí thí nghiệm và cây không bố trí thí nghiệm hầu như không có sự biến đổi nào lớn. Đỉnh sinh trưởng của cây cũng như ở các cành của cây được bố trí thí nghiệm vẫn phát triển bình thường như những cây không được bố trí thí nghiệm. Các cành sơ cấp và thứ cấp không bị chết.
Tuy nhiên mà lá của cây có bố trí thí nghiệm bị biến đổi hơi vàng và bị xoăn mép.
Về khả năng sinh sản khả năng cho hoa của cây có bố trí thí nghiệm và cây không có bố trí thi nghiệm là như nhau. Nhưng khả năng kết trái của cây không bố trí thí nghiệm cao hơn cây có bố trí thí nghiệm là rõ rệt. Đối với một số cây có bố trí thí nghiệm thì cho hoa rất nhiều nhưng đến khi bắt đầu kết quả thì quả non bị rụng nhiều.
Qua quan sát bên ngoài thì ta thấy các nghiệm thức hoá học có phản ứng mạnh với cây hơn so với các nghiệm thức vi sinh. điều này cũng đúng với các trường hợp khác. Vi phần lớn các chất có nguồn gốc hoá học cũng cho phản ứng mạnh và nhanh với cây hơn các chất có nguồn gốc từ sinh học. Ngược lại các nghiệm thức bằng sinh học tuy có tác dụng chậm nhưng có tác dung lâu dài và thân thiện với môi trương, không để lại dư lương hoá chất trong các sản phẩm Trầm hương sau này.
5. Kết quả hình thành Trầm hương.
Sau khi bố trí thí nghiệm từ 8 tháng đến 2 năm thì tiến hành cưa một số cây và khảo sát sự hình thành Trầm hương trong các nghiệm thức. Ở hầu hết các nghiệm thức đều làm các vùng gỗ bị biến bổi màu. Tuy nhiên sự biến đổi màu không đồng nhất giữa các mẫu. Có mẫu cho màu nâu đen, có mẫu cho màu đen, cũng có mẫu chỉ ngả màu vàng nhạt. Diện tích mặt cắt phần gỗ biến đổi màu của các nghiệm thức cũng khác nhau. Khảo sát phần gỗ biến đổi màu thì thấy ngoài phần gỗ đã biến đổi màu ra ta còn thấy các mạch gỗ có biến đổi màu khác chạy dài và ăn sâu vào các lớp gỗ không biến đổi màu. Các sớ gỗ biến đổi màu này gọi là Chỉ. Đặc biệt các Chỉ này còn chạy dọc theo sớ gỗ của cây và xen kẽ với các mạch gỗ.
Bảng 4.1 Bảng đo diện tích vùng gỗ bị biến đổi mầu ở Phú Quốc
Stt Nghiệm thức Diện tích (mm2) Ghi chú
1 B1 5944 Chạy chỉ nhiều sâu
2 B2 3968 _
3 B3 2862 _
4 B4 4018 _
5 B5 7059 Vùng gổ biến đổi mầu ăn sâu
6 B6 2994 _
7 B7 888 Không tạo chỉ
8 C1 2215 _
9 C2 3034 _
10 C3 1294 _
11 C4 4329 _
12 C5 6777 Đổi màu ăn sâu
13 C6 2532
14 C7 432 Không tạo chỉ
15 E1 1260
16 E2 1771 Đổi màu ăn sâu
17 E3 1938 Đổi màu ăn sâu
18 E4 1258
19 E5 4988 Đổi màu ăn sâu
20 E6 2927
21 E7 704
Tạo chỉ dầu ít Từ kết quả ở bảng đo diện tích vùng gỗ bị biến đổi màu cho ta thấy có sự khác biệt rõ rệt về sự hình thành Trầm hương ở các nghiệm thức có sử dụng chế phẩm sinh học và hợp chất hoá học so với nghiệm thức đối chứng.
Các nghiệm thức đối chứng cho vùng gỗ biến đổi màu nhỏ, chủ yếu là vùng mô chết quanh lỗ khoan mà không có các vùng chỉ khác.Đối với các nghiệm thức khác thì ngoài vùng mô gỗ biến đổi màu còn có các chỉ chạy sâu và xen kẽ với các mạch gỗ của cây.
6. Kết quả đánh giá trầm hương cảm quan
Với kết quả đánh giá cảm quan trên thì lại một lần nữa khẳng định có sự khác biệt rõ ràng giữa các mẫu có bố trí hoá chất hoặc vi sinh với mẫu đối chứng về khả năng hình thành Trầm hương.
Ngoài ra tuỳ theo từng giống cây, từng vùng địa lý khác nhau cũng cho khả năng hình thành Trầm ở các nghiệm thức cũng khác nhau. Như cùng một giống ở Phú Quốc nhưng cây E cho kết quả khác so với cây B và cây C. Với hai vùng địa lý khác nhau Thảo Cầm Viên và Phú Quốc cũng cho hai kết quả khác nhau.
Đối với nhóm nghiệm thức bố trí bằng vi sinh và hoá học thì tới thời điểm này là quá sớm để đưa ra câu nhận xét về khả năng gây tạo Trầm. Vì vậy chúng tôi mới chỉ tạm ghi nhận để có số liệu cho những lần khảo sát sau.
7. Kết luận
Hầu hết các nghiệm thức được bố trí vào cây đều cho kết quả là có các vùng gỗ biến đổi mầu của các mô gỗ quanh các nghiệm thức. Khi đốt phần gỗ biến đổi mầu này thì thấy có mùi thơm đặc trưng của Trầm hương. Ngoài ra quanh vùng gỗ biến đổi màu còn có các chỉ có mầu nâu đen chạy dọc theo sớ gỗ của thân cây, và ăn sâu vào thân.
Theo kết quả phân tích bằng máy sắc ký khối phổ GC/MS thì cũng phát hiện một số chất chủ yếu có trong tinh dầu Trầm như:
2-Butanone 4-phenyl;2-Butanone4-4methoxyphenyl;Agarospirol;Bis(2ethylhexyl)phthalate;Isoaromadendrene epoxide; Guaia-3,9-dien.
Bước đầu chúng tôi ghi nhận các nghiệm thức bằng vi sinh và hoá học cho kết quả hình thành Trầm hương là tương đối như nhau. Nhưng giữa các nghiệm thức bằng hoá học và vi sinh cũng có sự khác biệt đáng kể. Nấm trắng có khả năng hình thành Trầm kém hơn Nấm đen. Nhóm nghiệm thức bằng hoá học thì NO3 có khả năng hình thành Trầm cao nhất, kế đến là SO4, Cl, Dầu. Nghiệm thức đối chứng cho kết quả hình thành Trầm không rõ ràng.
Qua các kết quả cảm quan và phân tích sắc ký khí khối phổ GC/MS ta có thể nói bước đầu Trầm hương đã hình thành ở các nghiệm thức. Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu nghi nhận, còn để đánh giá sát thực hơn thì chúng tôi phải theo dõi thêm trong một thời gian nữa. Chính vì vậy mà chúng tôi cũng chưa có kết luận cụ thể về hiệu quả hình thành Trầm ở các nghiệm thức khác nhau, các giống cây khác nhau…mà chúng tôi mới chỉ ghi nhận để theo dõi tiếp.
Các nghiệm thức cần được tiếp tục theo dõi nhằm đánh giá một cách khách quan nhất khả năng tạo Trầm của các nghiệm thức, từ đó tìm ra được phương pháp gây tạo Trầm tối ưu nhất để có thể sản xuất ra được chế phẩm gây tạo Trầm hương.
Đầu tư nhiều hơn về thời gian và tài chính để có thể tìm cho được những giống
Dó bầu có khả năng cho Trầm hương hiệu quả nhất.
Cây Dó bầu là cây phù hợp với khí hậu nước ta đặc biệt là vùng rừng núi, nơi có phần lớn người dân tộc thiểu số sinh sống. Đời sống của họ còn đang gặp rất nhiều khó khăn. Nên việc gây tạo thành công Trầm hương bằng phương pháp nhân tạo được xem là một hướng đi mới nhằm xoá đói giảm nghèo và tiến tới phát triển kinh tế ở những địa phương này. Vì vậy, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần có chính sách qua tâm đầu tư nhiều hơn nữa để các nhà khoa học yên tâm vào nghiên cứu để cho ra một quy trình công nghệ ổn định, có thể chuyển giao rộng rãi ra ngoài để sản xuất.
Nguồn : Hội Trầm Hương Việt Nam
Bạn đang xem tại website Tramhuongviet.com .Cảm ơn Quý khách hàng luôn quan tâm và theo dõi Trầm Hương Việt